Christus Vivit và Vẻ Thanh Xuân của Ba Ngôi Nơi Khuôn Mặt Đức Kitô

Triết gia Đan Mạch Soren Kirkegaard (1813-1855) được xem là cha đẻ của triết học hiện sinh Kitô giáo. Ông cũng đã đóng góp nhiều cho nền thần học, thi ca và sáng tác của Đan Mạch và Bắc Âu nói riêng cũng như thế giới Tây Phương nói chung trong thời cận và hiện đại. Trong một lời nguyện ông viết trong nhật ký ngày 02 tháng 2 năm 1839, tức ở tuổi 26 của đời mình, Kirkegaard đã tâm sự với Chúa: «Khắp nơi trên mỗi khuôn mặt các cô gái trẻ, con đều nhìn thấy những nét đẹp của Ngài, nhưng con biết rằng con cần vẻ đẹp của tất cả các thiếu nữ trên trần gian góp lại mới đủ để loại suy được nét thẩm mỹ của Ngài…»[1]

Điều triết gia Kirkegaard viết vào thế kỷ thứ 19 đã được một người trẻ khác sống trước ông 14 thế kỷ, thánh Augustinô, diễn tả như một tiếng than thở trong cuốn Lời Tự Thú (Confession) của mình: «Lạy Vẻ Đẹp vĩnh hằng và vĩnh tân, con đã yêu Ngài quá muộn! Con đã yêu Ngài quá muộn màng!». Đức Thánh Cha Phanxicô đã trích lại lời nguyện này trong số 17 của Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Về Giới Trẻ Christus Vivit để khuyến khích các Kitô hữu «đừng bao giờ hối hận về việc đã dành tuổi trẻ của mình làm người tốt, mở lòng ra cho Chúa và sống cách khác…»[2] «Với tâm tình âu yếm lớn lao», Đức Thánh Cha đã gởi Tông Huấn này «đến mọi người trẻ Kitô giáo», để củng cố nơi họ «những xác tín phát sinh từ đức tin của chúng ta, đồng thời để khuyến khích các bạn lớn lên trong sự thánh thiện và cam kết với ơn gọi bản thân của các bạn» (CV 3).

Đức Thánh Cha đã mở đầu sứ điệp bằng việc xác nhận với các người trẻ rằng: «Chúa Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và một cách tuyệt vời, Người mang tuổi trẻ đến với thế giới của chúng ta» (CV 1). Với định hướng này của Đức Thánh Cha, Tông Huấn chính là niềm cảm hứng giúp mọi Kitô hữu cùng với những người trẻ tìm ra và chiêm ngắm nét trẻ đẹp vĩnh hằng của Thiên Chúa được mạc khải qua khuôn mặt của Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, trong Kinh Thánh và nơi Giáo Hội là chính nhiệm thể của Ngài.

. . . . Người Trẻ Giúp Phục Hồi Nét Trẻ Đẹp Của Giáo Hội

Trong số 23 của Tông Huấn, Đức Thánh Cha đã nhắc lại cho các Kitô hữu một sự thực đôi khi đã bị lòng sùng mộ đạo đức thông thường làm mờ nhạt, đó là việc Đức Kitô “tắt thở” (Mt 27:50) trên thập giá khi Người mới hơn ba mươi tuổi (x. Lc 3, 23). Qua đó, Đức Thánh Cha muốn các tín hữu phải nhận ra rằng, Chúa Giêsu là một người trẻ tuổi. Người đã hiến cuộc sống của mình khi Người, nói theo ngôn ngữ ngày nay, mới chỉ là một người trưởng thành trẻ. Người bắt đầu sứ mệnh công khai của mình trong thời kỳ đẹp nhất của cuộc đời, và do đó, “một ánh sáng đã bừng lên” (Mt 4:16), ánh sáng này sẽ tỏa sáng rực rỡ nhất khi Người hiến mạng sống mình đến tận cùng. Việc kết thúc đó không phải là một điều đơn giản xảy ra; đúng hơn, toàn bộ tuổi trẻ của Người, trong mọi thời điểm, là một sự chuẩn bị quý giá cho nó. Tất cả mọi điều trong cuộc sống của Chúa Giêsu là một dấu chỉ sự mầu nhiệm của Người; thực vậy, toàn bộ cuộc đời Chúa Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc (CV 23).

Phúc Âm cung cấp cho chúng ta một tường thuật, nơi đó hình như những người đương thời đã nhận lầm tuổi tác Đức Kitô khi đối chất với ngài: «Ông chưa đến 50 tuổi mà dám nói mình đã thấy Abraham?» (Ga 8:57). Sự kiện những người đương thời thấy Chúa Giêsu già trước tuổi (Chúa chỉ trên 30 mà họ nghĩ đã gần 50!) có thể hiểu được vì cuộc sống thiếu thốn đói khổ (x.Mt 12:1-8; Mc 2:23-28; Lc 6:1-5) của những tháng năm công khai xuôi ngược rao giảng Phúc Âm, sống cảnh màn trời chiếu đất, «không có hòn đá gối đầu qua đêm» (Mt 8:20). Nhưng suốt trong dòng lịch sử Kitô giáo cũng đã không thiếu những tác giả trong các tác phẩm nghệ thuật cũng như suy tư thần học đã tô điểm khuôn mặt Đức Kitô bằng những nét cổ kính không thực; đặt trên môi miệng Đức Kitô những lời không bắt nguồn từ người Con mà «Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian» (Ga 10:36), gán ghép cho ngài sự khôn ngoan lão luyện của các bậc Guru, tiền bối, kinh sư…

Khuynh hướng «lão hoá» khuôn mặt hay chính con người và tư tưởng của Đức Kitô trong sách vở cũng như trong nghệ thuật đôi khi đã ảnh hưởng đến cách sống và quan hệ của tín hữu với Thiên Chúa trong đức tin Kitô giáo. Hệ luỵ đôi khi có thể rất tai hại, bởi vì việc lão hoá khuôn mặt Đức Kitô cũng dẫn đến việc lão hoá đức tin và đời sống Kitô giáo, hay nói cách khác làm cho Giáo Hội, là Nhiệm Thể của Đức Kitô, trở nên già nua, «sợ hãi và bị buộc chặt vào các cơ cấu» (CV 42). Trong viễn cảnh này, Đức Thánh Cha đã khuyến khích các tín hữu hãy

cầu xin Chúa giải thoát Giáo hội khỏi những người khiến Giáo hội già đi, giam cầm Giáo hội trong quá khứ, cầm chân Giáo hội hoặc giữ cho Giáo hội dậm chân tại chỗ… Giáo hội trẻ trung khi Giáo hội là chính mình, khi Giáo hội nhận được một lần nữa sức mạnh được sinh ra từ lời Chúa, từ Bí tích Thánh Thể, và sự hiện diện hàng ngày của Chúa Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta. Giáo hội trẻ trung khi Giáo hội chứng tỏ mình có khả năng liên tục trở về nguồn của mình. (CV 35)

Theo Tông Huấn, Giáo hội trở nên già cỗi khi để mình sa vào cơn cám dỗ đánh mất nhiệt tình truyền giáo, không còn dám mạo hiểm cho đức tin và trở lui tìm kiếm một hình thức an toàn giả mạo, trần tục. Chính trong bối cảnh này, những người trẻ có thể giúp giữ cho Giáo hội trẻ trung. Chính họ có thể ngăn Giáo hội khỏi hủ hoá và giữ cho Giáo hội tiến về phía trước, ngăn Giáo hội kiêu căng và bè phái, giúp Giáo hội nghèo hơn và làm chứng tốt hơn, đứng về phía người nghèo và người bị ruồng bỏ, đấu tranh cho công lý và khiêm tốn để mình bị thử thách. Nói tóm lại những người trẻ có thể đóng góp cho Giáo hội bằng vẻ đẹp của tuổi trẻ của mình để Giáo hội biết vui mừng với những khởi đầu mới, hiến mình không dè dặt, đổi mới và lên đường thực hiện các thành tựu lớn lao hơn. (x. CV 37).

Thượng Hội Đồng đã nhìn thấy đối với nhiều người trẻ, Thiên Chúa, tôn giáo và Giáo hội xem như chỉ là những hạn từ trống rỗng, nhưng một khi khuôn mặt trẻ của Chúa Giêsu được trình bày một cách hấp dẫn và hữu hiệu, họ sẽ dễ dàng bị thu hút. Do đó, Giáo Hội không nên quá bận tâm về chính mình mà trên hết, phải phản ảnh Chúa Giêsu Kitô và truyền đạt cho người trẻ bằng ngôn ngữ họ có thể hiểu và chấp nhận (x. CV 39). Cũng rất dễ nhận ra là nhiều người trẻ trong thế giới hiện đại không yêu cầu Giáo hội bất cứ điều gì vì họ không thấy Giáo hội có ý nghĩa đối với cuộc sống của họ. Thậm chí các tai tiếng tình dục và tài chính xảy ra trong Giáo Hội đã làm cho nhiều người trẻ thấy sự hiện diện của Giáo hội là một phiền toái, thậm chí là một điều gây khó chịu (x. CV 40). Tuy nhiên, giữa những bối cảnh xem ra bi quan này, người trẻ vẫn luôn là nguồn năng lực để trẻ hoá Giáo Hội Chúa Kitô, bởi vì

người trẻ rất vui khi thấy một Giáo hội khiêm tốn nhưng tự tin vào các hồng phúc của mình và có khả năng cung ứng những lời chỉ trích công bằng và huynh đệ, nhiều người khác muốn có một Giáo hội biết lắng nghe nhiều hơn, làm nhiều điều hơn thay vì chỉ đơn giản lên án thế giới. Họ không muốn thấy một Giáo hội im lặng và sợ sệt lên tiếng, nhưng không phải là một Giáo hội luôn luôn tranh đấu một cách đầy ám ảnh trong hai hoặc ba vấn đề. Để được đáng tin cậy đối với những người trẻ, có những lúc Giáo hội cần lấy lại được sự khiêm nhường của mình và cần lắng nghe, nhìn nhận rằng những gì người khác nói có thể cung cấp một chút ánh sáng nào đó giúp Giáo hội hiểu Tin Mừng tốt hơn. Một Giáo hội luôn luôn ở thế phòng thủ, mất đi sự khiêm nhường của mình và ngưng lắng nghe người khác, không dành chỗ cho các câu hỏi, đánh mất tuổi trẻ của mình và biến thành một viện bảo tàng. Như thế, làm thế nào, Giáo Hội có thể đáp ứng các giấc mơ của người trẻ? Cho dù Giáo hội có sở hữu được sự thật của Tin Mừng đi nữa, điều đó không có nghĩa là Giáo hội đã hoàn toàn hiểu được nó; đúng hơn, Giáo hội được kêu gọi tiếp tục lớn lên trong việc nắm bắt kho báu vô tận này. (CV 41)

Bằng một ngôn ngữ hết sức cởi mở và thành thật, Tông Huấn đối diện với mọi hình thức lạm dụng đã và đang hiện hữu nơi Giáo Hội: lạm dụng quyền lực, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục và tài chính. Nguồn gốc của các lạm dụng này có thể là sự mong muốn thống trị, thiếu đối thoại và minh bạch, các hình thức sống hai mặt, sự trống rỗng thiêng liêng, cũng như các điểm yếu về tâm lý… Nhưng theo Tông Huấn, chính «chủ nghĩa giáo sĩ trị» (clericalism) là một trong các nguyên nhân chính cho mọi hình thức lạm dụng trong Giáo Hội. Chủ nghĩa giáo sĩ trị là một cám dỗ liên tục về phía các linh mục, những người thay vì coi thừa tác vụ mà họ đã nhận được như một lời mời gọi để phục vụ trong tự do và quảng đại, lại dùng thiên chức của mình như một quyền lực thống trị. Chủ nghĩa này tạo nên ảo tưởng rằng giáo sĩ là một nhóm người có mọi câu trả lời và không cần phải lắng nghe hoặc có bất cứ điều gì phải học hỏi, và làm cho các linh mục mất đi «lòng kính trọng đối với giá trị thánh thiêng và bất khả nhượng của mỗi con người và quyền tự do của họ». (CV 98)

Sau khi nhìn nhận những người lạm dụng quyền bính để gây ra các tội ác và gương xấu chỉ là một thiểu số rất nhỏ, và đa số các linh mục vẫn là những người thi hành thừa tác vụ của họ với lòng trung thành và rộng lượng, Đức Thánh Cha cũng xác định rằng người trẻ là một nguồn chữa lành lớn lao nếu họ sử dụng khả năng lớn lao của họ để mang lại sự canh tân, cung cấp cho Giáo Hội những chứng tá, mơ ước và ý tưởng đổi mới (x. CV 100). Tông Huấn đã đánh giá rất cao đóng góp của người trẻ trong tiến trình chữa lành và đổi mới này:

Qua sự thánh thiện của giới trẻ, Giáo hội có thể đổi mới nhiệt tâm thiêng liêng và sức sống tông đồ của mình. Dầu thơm thánh thiện phát sinh từ cuộc sống tốt đẹp của rất nhiều người trẻ có thể chữa lành các vết thương của Giáo hội và thế giới, đưa chúng ta trở lại với tình yêu viên mãn mà chúng ta luôn được mời gọi hướng tới: những vị thánh trẻ gợi hứng để chúng ta trở về với tình yêu đầu tiên của chúng ta. (CV 50).

Trên đường lữ hành hai ngàn năm của mình, tội lỗi của con cái đã tạo các đường nhăn trên khuôn mặt của Mẹ Giáo Hội, nhưng Giáo Hội «không cần phẫu thuật thẩm mỹ dưới bất cứ hình thức nào» (CV 101), bởi “Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ bỏ rơi Giáo hội của mình, mang đến cho Giáo hội sức mạnh và phương thế để bước lên một nẻo đường mới” (CV 102) Cùng với Đức Kitô, Đấng muôn đời trẻ trung, các người trẻ «thực sự có thể là cơ hội cho một cuộc cải cách tạo thời đại”, mở cửa cho Giáo Hội tiến vào một Lễ Ngũ Tuần mới và khai mở một giai đoạn thanh tẩy và thay đổi mới có khả năng đổi mới tuổi trẻ của Giáo hội (x. CV 102). Trong nổ lực canh tân và trẻ hoá Giáo Hội người trẻ cũng có Đức Maria

là người Mẹ luôn chăm sóc chúng ta, những đứa con của ngài, trên hành trình xuyên qua cuộc đời, thường mệt mỏi và thiếu thốn, lo lắng để ánh sáng hy vọng không bị dập tắt. Vì đó là mong muốn của chúng ta: rằng ánh sáng của hy vọng không bao giờ bị dập tắt. Đức Maria Mẹ của chúng ta hướng nhìn dân lữ hành này: một dân trẻ trung mà ngài yêu thương và tìm kiếm ngài trong sự im lặng của trái tim họ giữa mọi ồn ào, huyên thuyên và sao lãng của cuộc lữ hành. Dưới ánh mắt của Mẹ chúng ta, chỉ còn chỗ cho sự im lặng của hy vọng. Do đó Đức Maria chiếu sáng tuổi trẻ của chúng ta. (CV 48)

Bên cạnh đó, đồng hành với giới trẻ hôm nay là những vị thánh trẻ đã hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô qua các thời đại, nhiều người trong số các ngài thậm chí đã chết cái chết tử vì đạo. Các ngài là những phản chiếu quý giá của Chúa Kitô trẻ trung; chứng tá rạng rỡ của các ngài khuyến khích chúng ta và đánh thức chúng ta khỏi sự thờ ơ của chúng ta. Trong các chứng tá trẻ này, Tông Huấn đã đề cập đến Chân Phúc Anrê Phú Yên

là một chàng trai trẻ người Việt ở thế kỷ XVII. Ngài là một giáo lý viên và trợ giúp các nhà truyền giáo. Ngài bị cầm tù vì đức tin, và vì không chịu từ bỏ nó, ngài đã bị giết. Anrê chết khi thốt ra tên Chúa Giêsu. (CV 54)

Sự già cỗi của Giáo Hội trở nên rõ nét và đáng sợ khi nhiệt tâm truyền giáo biến mất nơi cộng đồng Dân Chúa. Người trẻ chính là sức mạnh năng động làm cho Phúc Âm được lan toả. Tràn đầy tình yêu Chúa Kitô, người trẻ được mời gọi làm chứng nhân Tin Mừng bất cứ họ ở đâu, qua cách họ sống. Người trẻ không thể im lặng, không nói về và nói với Chúa Giêsu. Họ phải lập lại điều Thánh Phaolô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Trong viễn cảnh, Đức Thánh Cha ngỏ lời trực tiếp với các bạn trẻ:

Đừng ngại ra đi và mang Chúa Kitô vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, đến các ngoại vi xã hội, đến với cả những người có vẻ xa cách và hờ hững nhất. Chúa tìm kiếm mọi người; Người muốn mọi người cảm nhận được sự ấm áp của lòng thương xót và tình yêu của Người. Người mời chúng ta trở thành những nhà truyền giáo không sợ hãi bất kể chúng ta ở đâu và trong bất cứ môi trường nào: trong các khu phố của chúng ta, trong trường học hoặc thể thao hoặc sinh hoạt xã hội, trong phục vụ tình nguyện hoặc tại nơi làm việc. Bất cứ ở đâu, chúng ta luôn có cơ hội để chia sẻ niềm vui Tin Mừng. Các người trẻ thân mến, đó là cách Chúa ra đi gặp gỡ mọi người. Người yêu các bạn, vì các bạn là các phương thế để Người có thể lan tỏa ánh sáng và hy vọng. Người đang trông chờ vào sự can đảm, sự táo bạo và nhiệt tình của các bạn. (CV 177)

. . . . Ơn Gọi Làm Bạn Hữu Với Người Con Vĩnh Cửu Của Cha

Như chúng ta vừa để cập, tiến trình lão hoá bộ mặt của Đức Kitô và Giáo Hội đã khiến nhiều người trẻ hôm nay cảm thấy Phúc Âm xa lạ, bởi vì Tin Mừng được rao giảng và truyền đạt cho họ bằng một ngôn ngữ quá già nua, lỗi thời khiến họ không có khả năng và cảm hứng để thấu hiểu và đón nhận. Christus Vivit muốn trình bày một «Chúa Giêsu trẻ giữa người trẻ để trở thành tấm gương cho người trẻ và thánh hiến họ cho Chúa» (CV 22). Nói cách khác một trong những mục đích chính của Tông Huấn, đó là việc Đức Thánh Cha cố gắng để giúp người trẻ cũng như mọi Kitô hữu đọc lại Phúc Âm và tìm gặp đúng con người thật của Ngôi Lời Nhập thể mà mạc khải Kitô giáo muốn truyền đạt. evet hos evangelisten Johannes.

Đức Thánh Cha đã chia sẻ trực tiếp suy nghĩ này với các bạn trẻ:

Chúa Giêsu không dạy các các bạn, những người trẻ, từ xa hay từ bên ngoài, nhưng từ trong chính tuổi trẻ của các bạn, một tuổi trẻ Người chia sẻ với các bạn. Điều rất quan trọng đối với bạn là chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trẻ trung như được trình bày trong các sách Tin mừng, vì Người thực sự là một trong số các bạn, và chia sẻ nhiều đặc điểm của trái tim trẻ của các bạn. Chúng ta thấy điều này, chẳng hạn, trong chi tiết sau: Chúa Giêsu có niềm tin vô điều kiện vào Chúa Cha; Người duy trì tình bạn với các môn đệ và ngay cả trong những giây phút khủng hoảng, Người vẫn trung thành với họ. Người đã biểu lộ lòng trắc ẩn sâu sắc đối với những người yếu đuối nhất, đặc biệt là người nghèo, người bệnh, tội nhân và những người bị loại trừ. Người đã can đảm đối đầu với các thẩm quyền tôn giáo và chính trị thời bấy giờ; Người biết thế nào là cảm thấy bị hiểu lầm và bị từ chối; Người trải qua nỗi sợ đau khổ và Người biết sự yếu đuối của Cuộc Khổ Nạn. Người hướng ánh mắt về tương lai, phó mình trong bàn tay an toàn của Chúa Cha, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nơi Chúa Giêsu, mọi bạn trẻ đều có thể nhìn thấy mình. (CV 31).

Trong bốn Phúc Âm chỉ có mình thánh Luca cho chúng ta biết đến tuổi tác Đức Giêsu khi ngài bắt đầu cuộc sống công khai (x. Lc 3:23), nhưng cả ba tác giả Phúc Âm Nhất Lãm đều tường thuật việc Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giordan khi bắt đầu sứ mệnh. Tông Huấn đã đề cao biến cố này để giới thiệu «Chúa Giêsu như một thanh niên trẻ tuổi cho thấy Người đứng giữa đám đông bên bờ sông Giordan để được người anh em họ Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, giống như bất cứ thành viên nào khác trong dân tộc của Người» (CV 24) .

Và theo các Phúc Âm Nhất Lãm, khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, thì các tầng trời mở ra và Chúa Cha đã tỏ mình để xác định quan hệ Cha Con với Ngôi Lời Nhập Thể: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người .» (Mt 3:13-17; x. Mc 1:9-11; Lc 3:21-22). Sự trẻ trung của Đức Kitô trước hết và trên hết được thấy trong quan hệ Cha Con với Thiên Chúa Cha. Từ đời đời và đến đời đời ngài là Con Yêu Dấu của Cha. Đây chính là mạc khải trung tâm đặt nền tảng cho Kitô giáo. Thiên Chúa là Cha và Con liên kết trong Thánh Thần. Ngay từ tuổi thơ ấu Đức Kitô đã sống và khẳng định vai trò Con từ đời đời này. Cậu bé Giêsu đã nói với thánh Giuse và mẹ Maria: «Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?» (Lc 2:49). Trong vườn Cây Dầu, khi đối diện với chén đắng phải uống để cứu chuộc nhân loại, người con cũng chỉ năn nỉ Cha: «Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con» (Mc 14:36). Trên Thập Giá trước khi nhắm mắt lìa đời trên môi miệng của người con còn đang ở tuổi thanh niên trong bản tính nhân loại này cũng chỉ thốt ra một lời Abba, «Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha» (Lc 23:46).

Tuy nhiên để đi sâu vào quan hệ nhiệm mầu của Ba Ngôi, nơi Đức Kitô đời đời đã nắm giữ địa vị làm Con, mà Thiên Chúa đã mạc khải cho nhân loại qua mầu nhiệm Nhập Thể cũng như trong suốt cuộc hiện sinh của Đức Kitô, chúng ta cần đến thánh Gioan, người ngay từ trong phần dẫn nhập của Phúc Âm của mình đã khẳng định: «Thiên Chúa, chưa bao giờ ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng của Cha, chính người đã tỏ cho chúng ta biết» (Ga 1:18). Người Con đó đã mở đầu sứ vụ công khai bằng việc tẩy uế đền thờ, đánh đuổi những người buôn bán vì họ đã «biến nhà cha tôi thành nơi buôn bán» (Ga 2:16).[3] Và cũng chính trong quan hệ thẳm sâu của tình Cha Con vĩnh cửu này, mầu nhiệm ơn cứu độ nhân loại được diễn tả và tóm tắt: «Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời» (Ga 3:16). Trên môi miệng của Người Con Vĩnh Cửu, Thiên Chúa, Đấng Tự Hữu, «Đấng Ta Là» (Xh 3:14) của Cựu Ước, đã được biết đến và thờ phượng như là Cha. Đức Kitô đã khẳng định với người phụ nữ Samaria:

Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Cha trong tinh thần và chân lý, vì Cha tìm kiếm những người thờ phượng Người như thế… (Ga 4:23).

Cho dầu việc mạc khải quan hệ Cha Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi đã gây cớ vấp phạm cho những người đã quen tôn thờ Thiên Chúa Độc Nhất (x. Dnl 6:4-7) và ở ngoài mọi quan hệ (x. Ga 5:18), Đức Kitô đã không ngần ngại mạc khải sự lệ thuộc và kết hợp sâu kín nhất của ngài đối với Cha khi xác nhận «tôi và Cha là một» (Ga 10:30) và những ai «không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi» (Ga 8:19). Tất cả những gì Đức Kitô làm đều mạc khải công trình sáng tạo và quan phòng của Cha, vì «người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy» (Ga 5:19). Khi xác định «cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc liên lĩ và tôi cũng làm việc» (Ga 5:17), Đức Kitô nói đến công trình tạo dựng mới[4] Cha thực hiện trong người Con, khi «Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người» (Ga 5:26-27). Nếu sự sống đời đời là chính việc hưởng kiến Thiên Chúa, thì sự hưởng kiến này đã bắt đầu cho «tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con», và người Con, «sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết» (Ga 6:40)[5], bởi vì «không có ai đã từng thấy Cha, duy chỉ có Đấng từ Cha mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Cha» (Ga 6:46). Sự sống nhiệm mầu của Thiên Chúa được mở ra và trao tặng qua người Con, vì như «Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy» (Ga 6:57).

Mạc khải về căn tính Hằng Hữu của Thiên Chúa được bắt đầu trong Cựu Ước (x. Xh 3:14-15) chỉ đạt đến chiều kích tràn đầy nơi Thập Giá của Đức Kitô: «Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy» (Ga 8:28). Như vậy mầu nhiệm Thập Giá mạc khải căn tính hằng hữu của Con trong Cha cũng đồng thời rọi ánh sáng vào quan hệ tự hiến và vâng phục tuyệt đối của Người Con đã không «tự mình nói ra, nhưng là chính Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Cha đã nói với tôi» (Ga 12:49-50).

Tuy nhiên Đức Kitô chỉ tiết lộ những quan hệ mật thiết sâu thẳm trong mầu nhiệm Ba Ngôi, Cha Con và Thánh Thần cho những người ngài gọi là «bạn hữu» (x. Ga 15:13-15) bởi vì ngài yêu thương bạn hữu mình và «yêu thương họ cho đến cùng» (Ga 13:1). Chính trong bữa ăn cuối cùng nơi trần thế, Đức Kitô đã mở hết mọi chiều kích của trái tim Ngài cho những người mà Ngài đã yêu thương hơn chính tính mạng của mình, vì «không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15:13). Đối với bạn hữu đang xao xuyến, Ngài cho họ biết, «thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó» (Ga 14:3). Ngài cũng tỏ cho họ biết Ngài chính là «đường, sự thật và sự sống» (Ga 14:6), dẫn đưa họ đến với Cha. Khi các bạn hữu sống trong tình thân với Đức Kitô, họ đã bắt đầu cuộc sống vĩnh cửu, hưởng kiến Thiên Chúa ngay từ đời này bởi vì «nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người» (Gio 14:7).

Trước khi đi vào cuộc thương khó của mình, lời cầu nguyện thống thiết nhất Đức Kitô cũng đã dành cho «những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con» (Ga 17:6). Người Con đã kết thúc lời nguyện hiến thánh dâng lên Cha bằng những tâm tình thật nhất, sâu nhất cho bạn hữu mình:

Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa. (Ga 17:24-26)

Trong Tông Huấn Christus Vivit, Đức Thánh Cha không giấu một ước muốn rõ ràng và mãnh liệt là giới thiệu cho những người trẻ hôm nay tình bạn thấm thuý và quan hệ mật thiết này với Đức Kitô, khi ngài viết:

Cho dù các bạn sống bao nhiêu trải nghiệm trong những năm tháng tuổi trẻ này, các bạn sẽ không bao giờ biết ý nghĩa sâu sắc và đầy đủ nhất của chúng trừ khi mỗi ngày các bạn gặp người bạn thân nhất của các bạn, người bạn có tên là Giêsu. (CV 150)

Theo Đức Thánh Cha, tình bạn với Đức Kitô là một mời gọi của ân sủng. Chính Người nâng cao chúng ta để chúng ta thực sự trở thành bạn bè của Người. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ đầu tiên, «hãy đến mà xem», và «họ đã đến và thấy nơi Người ở, và họ ở lại với Người ngày hôm đó» (Ga 1:39). Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ và cảm động đó, họ bỏ mọi sự và trở thành bạn với Người. Kinh nghiệm về tình bạn này với Đức Giêsu mỗi người trẻ đều có thể trãi qua khi họ bắt đầu gặp gỡ Ngài trong đời sống cầu nguyện, bởi vì, theo Đức Thánh Cha, cầu nguyện

vừa là một thách thức vừa là một phiêu lưu. Và thật là một cuộc phiêu lưu kỳ thú! Dần dần, Chúa Giêsu làm chúng ta đánh giá cao sự vĩ đại của Người và tiến lại gần Người hơn. Cầu nguyện cho phép chúng ta chia sẻ với Người mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta và tin tưởng nghỉ ngơi trong vòng tay của Người. Đồng thời, nó cho chúng ta tham dự vào cuộc sống và tình yêu của Người. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta thổ lộ mọi điều chúng ta làm với Người và chúng ta dành cho Người không gian để Người có thể hành động, nhập cuộc và giành chiến thắng. (CV 155)

Đời sống cầu nguyện thực sự giúp người trẻ trãi nghiệm sự gần gũi liên tục với Đức Kitô, đến nỗi họ có thể thốt lên như Phaolô:“Không còn là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Đức Thánh Cha đã khẩn khoản nài xin người trẻ đừng

tước đi khỏi tuổi trẻ các bạn tình bạn này. Các bạn sẽ có thể cảm thấy Người ở bên các bạn không chỉ lúc các bạn cầu nguyện, mà ở mọi thời điểm. Hãy cố gắng tìm kiếm Người, thì các bạn sẽ có những trải nghiệm tuyệt vời khi thấy Người luôn ở bên các bạn. Đó là những gì mà các môn đệ Emmau đã trải qua khi, trong lúc họ đang bước đi một cách chán nản, Chúa Giêsu “tiến đến gần và cuốc bộ với họ” (Lc 24:15)… Kitô giáo không phải là một tập hợp các sự thật phải được tin, các quy tắc phải được tuân theo hoặc các cấm đoán… Kitô giáo là một người yêu tôi vô cùng, người đòi hỏi và yêu cầu tình yêu của tôi. Kitô giáo là Chúa Kitô. (CV 156)

. . . . Hướng Đến Một Nền Thần Học Thẩm Mỹ

Đức Thánh Cha đã gọi chương bốn của Christus Vivit là «Một thông điệp lớn cho mọi người trẻ», và ngài đã mở đầu chương này với những lời lẽ thật phấn khích và năng động khi ngài mời gọi mọi người trẻ hãy bỏ «mọi điều khác sang một bên», bởi vì ngài «muốn nói với những người trẻ về điều thiết yếu, một điều chúng ta không bao giờ nên giữ im lặng. Đó là một sứ điệp chứa ba sự thật vĩ đại mà tất cả chúng ta cần liên tục lắng nghe» (CV111).

«Ba sự thật vĩ đại» này là gì mà Đức Thánh Cha có vẻ bí mật và úp mở như vậy? Tại sao ngài gọi đây là «một thông điệp lớn» đối với mọi người trẻ và mời gọi họ «không bao giờ nên giữ im lặng» về nó? Đọc thoáng qua chương bốn thì thấy Đức Thánh Cha chẳng nói điều gì mới cả, ngài nói về Chúa Ba Ngôi. Nhưng đọc kỹ chúng ta nhận ra Đức Thánh Cha muốn mở ra cho người trẻ một cái nhìn mới về Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu Tuyệt Mỹ. Nói cách khác, ngài đang muốn dẫn dòng suy tư của giới trẻ cũng như toàn thể Giáo Hội hướng đến một điều mà chúng ta có thể gọi là «một nền thần học về thẩm mỹ», chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Cha, Con và Thánh Thần.

Đức Thánh Cha mở đầu về Chúa Cha, mà ngài đề tựa là «Một Thiên Chúa vốn là tình yêu» với những lời lẽ xác quyết này hướng đến những người trẻ:

Sự thật đầu tiên tôi muốn nói với mỗi người các bạn là thế này: “Thiên Chúa yêu các bạn”. Bất luận các bạn đã nghe nó hay chưa. Tôi muốn nhắc các bạn nhớ điều đó. Thiên Chúa yêu các bạn. Đừng bao giờ nghi ngờ điều này, bất cứ điều gì có thể xảy ra với các bạn trong cuộc sống. Ở mọi thời điểm, các bạn đều được yêu thương vô hạn. (CV 112)

Để hiểu được sứ điệp Đức Thánh Cha muốn gởi đến những người là chính nét trẻ đẹp của thế giới và Giáo Hội, chúng ta phải đọc trình thuật đầu tiên của công cuộc tạo dựng (Stk 1:1-2:4a). Trong trình thuật ngắn này, chúng ta thấy sáu lần thành ngữ Thiên Chúa thấy… tốt đẹp được dùng: «Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp» (Stk 1:4); sau khi phân rẽ đất biển «Thiên Chúa thấy thế tốt đẹp» (Stk 1:10); nhìn thấy cây cối thảo mộc xuất hiện trên mặt đất, «Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp» (Stk 1:12); nhìn xem vòm trời trăng sao soi sáng vũ trụ, «Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp» (Stk 1:18); khi các thuỷ vật và chim muông xuất hiện, «Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp» (Stk 1:21); quan sát các loài gia súc trên mặt đất, «Thiên Chúa lấy thế là tốt đẹp» (Stk 1:25). Khi sáu lần thành ngữ Thiên Chúa thấy tốt đẹp được dùng cho các tạo vật khác, Kinh Thánh lại kết luận mạnh mẽ và rõ ràng hơn rằng «Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp» (Stk 1:31) với việc tạo dựng con người đã hoàn tất.

Trình thuật về công trình sáng tạo, như vậy, muốn giới thiệu cho chúng ta một Thiên Chúa, vừa là Đấng Sáng Tạo vẻ đẹp, nhưng Ngài cũng chính là Đấng thưởng thức, trân quí và yêu mến sự toàn mỹ. Mọi sự tốt đẹp đều xuất phát từ Thiên Chúa và chia sẻ chính vẻ đẹp vô biên của Ngài, nhưng duy nhất chỉ có con người Kinh Thánh xác quyết và lập lại là mang lấy hình ảnh Thiên Chúa: «Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa» (Stk 1:27). Như vậy ngay những trang đầu tiên của Kinh Thánh, chúng ta có thể tìm thấy được câu trả lời cho vấn nạn tại sao Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài. Mang hình ảnh của Thiên Chúa là mang chính vẻ tuyệt mỹ khôn lường của Ngài. Vẻ đẹp chúng ta chia sẻ với Thiên Chúa, chính chúng không nhìn thấy và không tát cạn được bằng lý trí và giác quan hạn hẹp nhân loại, nhưng Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, Ngài biết. Ngài nhìn vào mỗi con người mang lấy hình ảnh Ngài trong một cách thế mà tình thương và hình ảnh của người cha trần thế một cách nào có thể giúp chúng ta khám phá ra. Đức Thánh Cha lý giải cho các bạn trẻ:

Có lẽ kinh nghiệm về tình cha của các bạn chưa phải là tốt nhất. Người cha trần gian của các bạn có thể đã cách xa hoặc vắng mặt, hoặc khắc nghiệt và độc đoán. Hoặc có thể người ấy không phải là người cha các bạn cần. Tôi không biết. Nhưng điều tôi có thể nói với các bạn, một cách chắc chắn tuyệt đối, là các bạn có thể tìm thấy sự an toàn trong vòng tay của Cha trên trời, của Thiên Chúa, Đấng là người đầu tiên ban cho các bạn sự sống và tiếp tục ban nó cho các bạn mọi lúc. Người sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các bạn, nhưng các bạn cũng sẽ nhận ra rằng Người hoàn toàn tôn trọng sự tự do của các bạn. (CV 113)

Dĩ nhiên phải chờ mạc khải của Đức Kitô, Người Con Chí Ái của Cha, nhân loại mới biết được Thiên Chúa Cha yêu sự đẹp nên sáng tạo và gìn giữ sự đẹp như thế nào:

… Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em… (Mt 6:28-30

Khi yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, các môn đệ của Đức Kitô phản ảnh chính sự tốt lành và tình yêu toàn hảo của Cha là «Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính» (Mt 5:44-45). Chỉ một mình Cha là Đấng Tốt Lành (x. Mc 10:18) và sự tốt lành phụ tử này là nền tảng và bảo đảm cho mọi lời cầu xin:

Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao? (Mt 7:9-10).

Tuy nhiên, theo Đức Thánh Cha, Kinh Thánh Cựu Ước cũng đã cung cấp nhiều cách phát biểu về tình yêu của Thiên Chúa. Bên cạnh tình cha, vẻ đẹp của tình yêu vô biên Thiên Chúa cũng nhìn thấy trong hình ảnh của người mẹ:

Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên con bao giờ (Is 49:15).

Thậm chí tình yêu đó cũng có thể hiểu theo tình yêu của một kẻ si tình, yêu đến mức viết người mình yêu vào lòng bàn tay, để giữ khuôn mặt người yêu ấy luôn ở trước mặt Người: “Này, Ta đã khắc ghi con trong lòng bàn tay Ta!”(Is 49:16). Thiên Chúa cho chúng ta biết rằng Người thấy nơi chúng ta một vẻ đẹp mà không ai khác có thể thấy: “Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43: 4). Trước tình yêu vô cùng của Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi điều tốt đẹp, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở các bạn trẻ đừng bao giờ quên họ là chính là công trình không thể thay thê được của Đấng Tuyệt Mỹ:

Đối với Người, các bạn có giá trị; các bạn đáng kể. Các bạn quan trọng đối với Người, vì các bạn là công trình của bàn tay Người. Đó là lý do tại sao Người quan tâm đến các bạn và nhìn các bạn cách âu yếm. “Hãy tín thác vào ký ức của Thiên Chúa: ký ức của Người không phải là ’’đĩa cứng’ ‘lưu’ và ’trữ’ mọi dữ liệu của chúng ta. Ký ức của Người là một trái tim chứa đầy lòng trắc ẩn dịu dàng, một trái tim tìm thấy niềm vui trong việc ‘xóa’ khỏi chúng ta mọi dấu vết của sự ác. Người không lưu giữ các thất bại của các bạn và Người luôn giúp các bạn học được điều gì đó ngay từ những sai lầm của các bạn. Vì Người yêu các bạn. Hãy cố gắng ở yên trong giây lát và để bản thân cảm nhận được tình yêu của Người. Hãy cố gắng làm im bặt mọi ồn ào bên trong, và nghỉ ngơi giây lát trong vòng tay yêu thương của Người. (CV 115)

Tiếp đến Đức Thánh Cha giới thiệu cho các bạn trẻ vẻ đẹp thần linh khác là «Chúa Kitô cứu các bạn», ơn cứu độ trong Đức Kitô, mà ngài gọi là «sự thật vĩ đại thứ hai» (CV 118). Đức Thánh Cha muốn các bạn trẻ cùng đọc Phúc Âm với ngài, cùng gặp gỡ Đấng mà vẻ đẹp siêu phàm của Ngài đã được tác giả Thánh Vịnh trước đó cả ngàn năm mô tả: «Giữa thế nhân, ngài vô song tuyệt mỹ, nét duyên tươi thắm nở môi ngài…» (Tv 45:1-2). Đức Thánh Cha muốn các bạn trẻ cũng nhìn thấy vẻ đẹp của Thập Giá và say mê Đấng Chịu Đóng Đinh cùng một cách thế như thánh Phaolô (x. 1Cor 1:18-25) để họ cũng có thể thốt lên từ trái tim điều người trẻ này cách đây hai ngàn năm đã tâm sự:

Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi (Gal 2:20).

Cảm hứng bởi tư tưởng và tu đức của thánh Phaolô, Đức Thánh Cha diễn tả và chia sẻ suy tư của ngài:

Cũng chính Chúa Kitô này, Đấng, bằng thập giá của Người, đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta, hôm nay tiếp tục cứu rỗi và cứu chuộc chúng ta bằng sức mạnh của việc hoàn toàn tự từ bỏ mình của Người. Hãy nhìn vào thập giá của Người, bám vào Người, để Người cứu các bạn vì “những người chấp nhận lời đề nghị cứu rỗi của Người được giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, trống rỗng nội tâm và cô đơn”. Và nếu các bạn phạm tội và lạc xa Người, Người sẽ đến nâng các bạn lên bằng sức mạnh thập giá của Người. Đừng bao giờ quên rằng Người tha thứ cho chúng ta bảy mươi lần bảy. Hết lần này đến lần khác, Người cõng chúng ta trên vai. Không ai có thể tước đi phẩm giá của chúng ta do tình yêu vô biên và vô tận này ban cho chúng ta. Với một sự dịu dàng không bao giờ làm thất vọng nhưng luôn có khả năng khôi phục niềm vui của chúng ta, Người khiến chúng ta có thể ngẩng cao đầu và bắt đầu lại một lần nữa”. (CV 119)

Để cảm nghiệm được hết vẻ đẹp của Thập Gía cứu độ, theo Đức Thánh Cha, các bạn trẻ phải dành thời giờ và tạo cho mình khả năng để đọc «câu chuyện tình» (CV 120) mà Tình Yêu Cứu Độ của Đức Kitô đã viết nên. Đoạn kết của câu chuyện tình này là sự tha thứ và sự cứu rỗi trở thành một món quà nhưng không, miễn phí. Sự hy sinh của Đức Kitô trên thập giá lớn đến nỗi chúng ta không bao giờ có thể đền đáp, mà chỉ có thể tiếp nhận với lòng biết ơn lớn lao và niềm vui của trái tim được yêu thương (x. CV 121). Trong nỗ lực diễn tả vẻ đẹp của tình yêu tha thứ và cứu độ trong Đức Kitô, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng không ngần ngại làm công việc của một hoạ sĩ là vẽ lại cánh tay dang rộng của Chúa Kitô bị đóng đinh. Chính cánh tay này đã ôm lấy đứa con hoang đàng, ôm lấy Phêrô sau những lần ông chối Chúa, và ôm tất cả những ai vấp ngã nhưng dám để cho Ngài đỡ dậy. Tóm lại, chính Thập Giá Đức Kitô cho người trẻ thấy giá trị và vẻ đẹp của họ:

Hỡi các người trẻ, những người yêu dấu của Chúa, các bạn hẳn có giá trị xiết bao, vì các bạn đã được cứu chuộc bằng máu quý giá của Chúa Kitô! Các bạn trẻ thân mến, “các bạn là vô giá! Các bạn không là hàng bán rẻ! Xin vui lòng, đừng để mình bị mua. Đừng để mình bị quyến rũ. Đừng để bản thân bị nô lệ bởi các hình thức thực dân ý thức hệ từng nhồi nhét các ý tưởng vào đầu các bạn, kết quả là cuối cùng các bạn trở thành nô lệ, nghiện ngập, thất bại trong đời. Các bạn là vô giá. Các bạn phải lặp lại điều này luôn: Tôi không là hàng bán rẻ; Tôi không có giá. Tôi tự do! Hãy yêu thích sự tự do này, sự tự do mà Chúa Giêsu đã cung cấp. (CV 122)

Theo thứ tự chúng ta có thể đoán «sự thật thứ ba» sẽ là vẻ đẹp của Chúa Thánh Thần được mô tả và gởi đến cho người trẻ. Nhưng không. Đức Thánh Cha đã chọn «Chúa Kitô đang sống» để tiếp tục dòng suy tư thần học thẩm mỹ của ngài trong đức tin Kitô giáo. Lý do cho sự chọn lựa này của Đức Thánh Cha, như chúng ta đã bàn đến, là ngăn ngừa sự lão hoá Kitô giáo, xem «Chúa Kitô chỉ đơn giản là một mô hình tốt từ quá khứ xa xôi, như một ký ức, như một người đã cứu chúng ta hai ngàn năm trước» (CV 124). Đức Thánh Cha muốn xác định với các bạn trẻ Đức Kitô Phục Sinh đang sống và đồng hành với Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài (x. Mt 28:20). Chính Đức Kitô lấp đầy cuộc sống của các tín hữu bằng sự hiện diện vô hình của Người. Người không phải chỉ là Chúa của quá khứ, nhưng Ngài đến và đồng hành với chúng ta hôm nay và mỗi ngày để tiếp tục mời gọi và hướng dẫn chúng ta đến những chân trời luôn luôn mới. Với sứ điệp về Đức Kitô đang sống, Đức Thánh Cha phấn khích những người trẻ:

Nếu trong tâm hồn các bạn, các bạn có thể học cách đánh giá cao vẻ đẹp của sứ điệp này, nếu các bạn sẵn lòng gặp Chúa, nếu các bạn sẵn lòng để Người yêu các bạn và cứu các bạn, nếu các bạn có thể kết bạn với Người và bắt đầu nói chuyện với Người, Chúa Kitô hằng sống, về những thực tại của cuộc đời các bạn, thì các bạn sẽ có một cảm nghiệm sâu sắc có khả năng nâng đỡ toàn bộ đời sống Kitô hữu của các bạn. Các bạn cũng sẽ có thể chia sẻ kinh nghiệm đó với những người trẻ tuổi khác. Vì làm một Kitô hữu không phải là kết quả của một lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả, mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi dứt khoát. (CV 129)

Chính Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện bất cứ nơi nào Chúa Cha và Chúa Con hiện diện, tràn đầy trái tim Chúa Kitô phục sinh sẽ tràn qua cuộc sống của các bạn trẻ. Chúa Thánh Thần sẽ kéo các bạn trẻ sâu hơn vào trái tim của Chúa Kitô, để họ có thể lớn lên trong tình yêu, cuộc sống và quyền năng của Người. Đức Thánh Cha khuyến khích các Kitô hữu trẻ:

Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần mỗi ngày giúp các bạn trải nghiệm như mới sứ điệp tuyệt vời… Người có thể thay đổi cuộc sống của các bạn, lấp đầy nó bằng ánh sáng và dẫn nó theo đường tốt hơn. Người không lấy gì khỏi các bạn, nhưng thay vào đó giúp các bạn tìm thấy mọi điều các bạn cần, và theo cách tốt nhất có thể… Chúng sẽ đến, nhưng một cách đẹp đẽ và ý nghĩa hơn nhiều, nếu bạn để cho mình được Chúa Thánh Thần thúc đẩy. (CV 131)

 


[1] HOWARD V. HONG & EDNA H. HONG, Eds., Soren Kirkegaard’s Journals and Papers, Volume 5, Autobiographical, Part One 1829-1848, Indiana University Press 1978, 128
[2] Christus Vivit (CV) 17. Bản dịch Việt ngữ của Vũ Văn An được đăng trên trang mạng của Giáo Phận Qui Nhơn (http://gpquinhon.org/q/giao-hoi-hom-nay/tong-huan-hau-thuong-hoi-dong-chua-kito-dang-song-1769.html) với đôi chút hiệu chính đối chiếu theo bản tiếng Anh chính thức của Toà Thánh
(http://w2.vatican.va/content/francesco/en/apost_exhortations/
documents/papa-francesco_esortazione-ap_20190325_christus-vivit.html).
[3] Cả bốn phúc âm đều tường trình biến cố này, nhưng ba phúc âm nhất lãm đã đặt sự kiện này vào thời điểm trước khi Đức Kitô kết thúc sứ mệnh công khai (x. Mt 21:12-13; Mc 11:15-17; Lc 19:45-46), chỉ mình thánh Gioan để tường thuật này để mở đầu cho sứ vụ công khai
[4] Thánh Phaolô đã quảng diễn công trình tạo dựng mới này trong này trong thư thứ 2 gởi tín hữu Côrintô: «Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người» (2Cor 5:17-21).
[5] Sự sống này chỉ có thể hiện hữu khi thông phần vào địa vị làm con của Người Con Duy Nhất của Cha. Thánh Phaolô diễn tả sự cao trọng và tuyệt vời của địa vị nghĩa tử này: «Trong Đức Ki-tô,Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người. (Ephêsô 1:4-12).

Tác giả bài viết: Lm. Paulus Ý

Kilde: https://gpquinhon.org/q/tu-lieu/christus-vivit-va-ve-thanh-xuan-cua-ba-ngoi-noi-khuon-mat-duc-kito-2171.html